Trang thông tin tổng hợp Viện Kiểm Sát Khánh Hòa

tiếp tục bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm trong tình hình mới

KỸ NĂNG PHÁT HIỆN VI PHẠM THƯỜNG GẶP TRONG CÔNG TÁC KIỂM SÁT XÉT MIỄN, GIẢM NGHĨA VỤ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI KHOẢN THU NỘP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Trong quá trình nghiên cứu các Văn bản quy định pháp luật liên quan và thực tiễn kinh nghiệm và kết quả kiểm sát việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước, với mong muốn là giúp cho Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Công chức có một số kỹ năng khi trực tiếp kiểm sát hoạt động này, nắm được cơ bản một số biện pháp, để nghiên cứu, nhằm phát hiện được một số vi phạm thường gặp, để kịp thời Kiến nghị, Kháng nghị yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự và Toà án nhân dân cùng cấp chấn chỉnh, khắc phục vi phạm trong thủ tục miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước.

Trong năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận được 107 Quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước (Nha Trang: 65, Vạn Ninh: 22, Diên Khánh: 15, Khánh Vĩnh: 02, Ninh Hòa: 03). Qua kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã ban hành 04 Kiến nghị (Tỉnh: 01; Nha Trang: 01; Cam Ranh: 01; Ninh Hòa: 01), yêu cầu khắc phục vi phạm ở một số dạng như sau:

1/ Về chậm gửi Quyết định miễn, giảm:

Theo Khoản 4 Điều 63 Luật Thi hành án dân sự, quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định về việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người được xét miễn, giảm thi hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, cơ quan thi hành án dân sự đã đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, trại giam, trại tạm giam nơi người được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước đang chấp hành hình phạt tù”.

Thấy có 89/107 Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Toà án nhân dân cấp huyện chậm gửi cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa.               Cụ thể:

- Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh: Ngày 22/8/2023 ban hành 22 Quyết định, đến ngày 13/10/2023 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa mới nhận được (chậm 45 ngày).

- Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh: Ngày 12/9/2023 ban hành 02 Quyết định, đến ngày 13/10/2023 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa mới nhận được (chậm 24 ngày).

- Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang: ban hành 65 Quyết định, trong đó: Ngày 13/3/2023 ban hành 14 Quyết định từ số 01 đến 05, số 07 đến 15, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận ngày 11/4/2023 (chậm 22 ngày); Ngày 16/6/2023 ban hành 13 Quyết định từ số 16 đến số 28, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận ngày 10/7/2023 (chậm 17 ngày); Ngày 31/7/2023 ban hành 28 Quyết định số 39 đến 47, số 58 đến 76, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận ngày 16/8/2023 (chậm 09 ngày); Ngày 31/7/2023 ban hành 10 Quyết định số 48 đến 57, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận ngày 29/8/2023 (chậm 22 ngày).

Mặt khác, tại Khoản 1 Điều 64 Luật Thi hành án dân sự, quy định: “Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Tòa án có thể bị Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Hết thời hạn kháng nghị, Viện kiểm sát không kháng nghị thì quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành”.

Do đó, việc chậm gửi Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Tòa án nhân dân cấp huyện cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa, dẫn đến việc kéo dài thời hạn về hiệu lực thi hành của Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án. Đồng thời, ảnh hưởng đến việc Cơ quan thi hành án dân sự ra Quyết định đình chỉ đối với các trường hợp được miễn nghĩa vụ thi hành án (khi Quyết định này có hiệu lực) theo điểm e Khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự.

2/ Quyết định áp dụng Điều, Khoản của Luật thi hành án dân sự để căn cứ xét miễn, giảm thi hành án không đúng quy định

Có 14 Quyết định (Bao gồm Quyết định số 40, 45, 47, 59, 60, 61, 68, 69 và từ số 70 đến 75 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang), có các dạng vi phạm:

- Điển hình 1: Quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án số 40 ngày 31/7/2023, về trường hợp ông Nguyễn Bửu Anh phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền 350.000 đồng (theo Quyết định thi hành án số 527 ngày 18/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang).

Quá trình thi hành án, ông Nguyễn Bửu Anh chưa thi hành và không có điều kiện thi hành án, đến nay đã đủ thời hạn 05 năm kể từ khi có Quyết định thi hành án, nên được xét miễn thi hành án theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Thẩm phán lại căn cứ Khoản 2 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự (đối với trường hợp người phải thi hành án đã thi hành được một phần nghĩa vụ), để ban hành Quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án cho ông Nguyễn Bửu Anh, là không đúng quy định.

- Điển hình 2: Quyết định giảm nghĩa vụ thi hành án số 47 ngày 31/7/2023, về trường hợp ông Nguyễn Cang phải nộp 32 chỉ vàng y (theo Quyết định thi hành án số 349 ngày 08/12/2008 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang).

Quá trình thi hành án, ông Nguyễn Cang đã thi hành án và được xét giảm nhiều lần, đến nay còn phải thi hành án 10,55 chỉ vàng y, hiện không có điều kiện thi hành án, nên tiếp tục được xét giảm theo quy định tại Khoản 3 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Thẩm phán căn cứ Khoản 2 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự (đối với trường hợp xét miễn) để ban hành Quyết định giảm nghĩa vụ thi hành án cho ông Nguyễn Cang, là không đúng quy định.

- Điển hình 3: Quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án số 68 ngày 31/7/2023, về trường hợp ông Nguyễn Mạnh Hùng phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền 5.200.000 đồng (theo Quyết định thi hành án số 705 ngày 02/7/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang).

Quá trình thi hành án, ông Nguyễn Mạnh Hùng đã nộp được số tiền 210.000 đồng, còn phải thi hành án số tiền 4.990.000 đồng và không có điều kiện thi hành án, đến nay đã đủ thời hạn 05 năm kể từ khi có Quyết định thi hành án, nên được xét miễn số tiền phải thi hành án còn lại theo quy định tại Khoản 2 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Thẩm phán căn cứ Khoản 3 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự (đối với trường hợp xét giảm nghĩa vụ thi hành án) để ban hành Quyết định miễn nghĩa vụ phải thi hành án còn lại cho ông Nguyễn Mạnh Hùng, là không đúng quy định.

3/ Quyết định không xác định các trường hợp xét miễn, giảm thuộc diện chưa có điều kiện thi hành án

Theo điểm e Khoản 3 Điều 6 Thông tư 12/2015/TTLT ngày 15/9/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn: “Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án

3. Tài liệu khác chứng minh điều kiện được xét miễn, giảm thi hành án của người phải thi hành án quy định tại khoản 4 Điều 62 Luật Thi hành án dân sự là một trong các loại tài liệu sau:

e) Quyết định của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự về việc người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 44a Luật Thi hành án dân sự...

Như vậy, điều kiện để được xét miễn, giảm thi hành án thì người phải thi hành án phải thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành án. Tuy nhiên, qua kiểm sát thấy có 25 Quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án (Bao gồm 22 Quyết định từ số 01 đến 20, số 22 và 23 của Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh; 03 Quyết định từ số 06 đến 08 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa). Thẩm phán không xác định người phải thi hành án đã thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành án, mà ban hành Quyết định miễn thi hành án, là chưa đảm bảo theo quy định. Cụ thể:

- Quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án số 01 ngày 22/8/2023, về trường hợp ông Nguyễn Minh Phát phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền 10.500.000 đồng (theo Quyết định thi hành án số 181 ngày 01/11/2010 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vạn Ninh).

Quá trình thi hành án, ông Nguyễn Minh Phát đã thi hành một phần số tiền sung công quỹ Nhà nước là 2.560.000 đồng. Số tiền còn lại 7.940.000 đồng chưa thi hành, đến nay đã đủ thời hạn 10 năm kể từ khi có Quyết định thi hành án, nên được xét miễn thi hành án theo quy định tại Khoản 2 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự.

Thẩm phán không xác định ông Phát thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành án (có Quyết định chưa có điều kiện thi hành án), để ban hành Quyết định miễn nghĩa vụ phải thi hành án còn lại cho ông Nguyễn Minh Phát, là chưa đảm bảo theo quy định.

- Quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án số 06 ngày 26/10/2023, về trường hợp ông Nguyễn Quang Lưu phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền 1.553.000 đồng (theo Quyết định thi hành án số 1053 ngày 04/7/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa).

Quá trình thi hành án, ông Nguyễn Quang Lưu chưa thi hành, đến nay đã đủ thời hạn 05 năm kể từ khi có Quyết định thi hành án, nên được xét miễn thi hành án theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự.

Thẩm phán không xác định ông Lưu thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành án (có Quyết định chưa có điều kiện thi hành án), để ban hành Quyết định miễn nghĩa vụ phải thi hành án còn lại cho ông Nguyễn Quang Lưu, là chưa đảm bảo theo quy định.

4/ Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án thiếu căn cứ pháp lý

Qua kiểm sát 14 Quyết định miễn, giảm của Toà án nhân dân thành phố       Cam Ranh (Viện kiểm sát tỉnh nhận ngày 20/11/2023), đều không căn cứ đủ các  quy định tại Thông tư số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 về hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách Nhà nước. Đồng thời, tại phần nhận định của Quyết định miễn thi hành án chưa đầy đủ các điều kiện để xét miễn, giảm (theo điểm đ Khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 12), cụ thể: Người phải thi hành án phải thi hành một phần khoản thu, nộp ngân sách Nhà nước là đã thi hành được ít nhất bằng 1/50 khoản thu, nộp ngân sách Nhà nước (Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 12); Thuộc trường hợp đã có Quyết định chưa có điều kiện thi hành án (điểm a Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 12); Biên bản xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án được thực hiện trong thời hạn không quá 03 tháng trước khi đề nghị xét miễn (Khoản 3 Điều 62 Luật Thi hành án dân sự).

5/ Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án sai sót về số liệu.

Tại Quyết định giảm nghĩa vụ thi hành án số 17 ngày 25/8/2023 của Toà án nhân dân thành phố Cam Ranh, xác định: Số tiền nộp Ngân sách Nhà nước theo Quyết định Thi hành án số 03 ngày 04/01/2000 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cam Ranh là 170.468.254 đồng. Đã thi hành số tiền 152.834.553 đồng.

Theo nội dung Quyết định giảm nghĩa vụ thi hành án số 17, xác định số tiền còn phải thi hành để xét giảm là 17.633.701 đồng, nhưng lại xét đối với số tiền còn phải thi hành án là 13.225.701 đồng là không phù hợp.

6/ Quyết định giảm nghĩa vụ thi hành án không nêu số tiền còn lại phải thi hành

Theo quy định tại điểm e Khoản 3 Điều 9 Thông tư 12/2015/TTLT ngày 15/9/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn “Thủ tục xét miễn, giảm thi hành án

3. Quyết định miễn, giảm thi hành án của Tòa án phải có nội dung chính sau:

e) Quyết định miễn thi hành án khoản nộp ngân sách nhà nước, số tiền được miễn; quyết định giảm một phần khoản nộp ngân sách nhà nước, số tiền được giảm, số tiền còn phải thi hành …”.

Qua kiểm sát 08 Quyết định giảm nghĩa vụ thi hành án số 48, số 51 đến 57 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa thấy Thẩm phán không nêu số tiền người phải thi hành án còn phải thi hành án trong Quyết định giảm thi hành án, là chưa đảm bảo theo quy định.

Điển hình: Quyết định giảm nghĩa vụ thi hành án số 54 ngày 31/7/2023, về trường hợp bà Hồ Thị Chín phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền 24.960.000 đồng (theo Quyết định thi hành án số 07 ngày 04/01/2011 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang).

Quá trình thi hành án, bà Hồ Thị Chín đã thi hành án và được xét giảm nhiều lần, đến nay còn phải thi hành án 13.758.750 đồng, hiện không có điều kiện thi hành án, nên tiếp tục được xét giảm theo quy định tại Khoản 3 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự.

Thẩm phán xét giảm số tiền 3.439.687 đồng trong nghĩa vụ thi hành án cho bà Hồ Thị Chín, nhưng ban hành Quyết định giảm nghĩa vụ thi hành án không nêu số tiền còn phải thi hành của bà Hồ Thị Chín là bao nhiêu, là chưa đảm bảo theo               quy định.

7/ Vi phạm về hiệu lực thi hành Quyết định của Tòa án.

Theo Khoản 1 Điều 64 Luật Thi hành án dân sự, quy định: “Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Tòa án có thể bị Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiếm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định.

Hết thời hạn kháng nghị, Viện kiểm sát không kháng nghị thì quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành”.

Ngày 20/11/2023, Viện kiểm nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận được 14 Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án số 01, 02, 03, 04, 05, 06, 07, 15, 16, 17, 18, 19, 20 21 ngày 25/8/2023 của Toà án nhân dân thành phố Cam Ranh. Như vậy, các Quyết định trên có hiệu lực để thi hành kể từ ngày hết thời hạn Kháng nghị  của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa, tính từ ngày Viện kiểm sát cấp trên nhận Quyết định (là ngày 20/11/2023), đến ngày 05/12/2023 mới có hiệu lực pháp luật. Nhưng ngày 28/9/2023 (trước đó hơn 02 tháng) Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh đã đóng dấu “ÁN CÓ HIỆU LỰC” gửi đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cam Ranh để ra Quyết định đình chỉ thi hành, là vi phạm Khoản 1 Điều 64 Luật Thi hành án dân sự.

 Ngày 28/9/2023, khi nhận các Quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án đã đóng dấu “ÁN CÓ HIỆU LỰC”, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cam Ranh đã ban hành các quyết định đình chỉ tương ứng số 51, 48, 50, 49, 53, 57, 60, 43, 44, 54, 56, 52, 55/QĐ-CCTHADS ngày 28/9/2023.

Vi phạm trên của Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, dẫn đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cam Ranh ra các Quyết định đình chỉ khi các        Quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án chưa có hiệu lực pháp luật là trái với Khoản 1 Điều 11 Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Khoản 1 Điều 11 Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015, quy định: “1. Căn cứ quyết định có hiệu lực của Tòa án về việc miễn thi hành án, cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án.”. 

 Trên đây là tổng hợp “Một số kỹ năng phát hiện vi phạm thường gặp trong công tác kiểm sát xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự đối với khoản thu, nộp ngân sách Nhà nước”, nhằm chỉ ra những tồn tại, vi phạm phổ biến, thường gặp của Cơ quan thi hành án dân sự Toà án nhân dân cấp huyện qua thực tế kiểm sát về hoạt động này, giúp cho Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Công chức nghiệp vụ cập nhật, nghiên cứu và ngày càng phát triển thêm về kỹ năng kiểm sát, để kịp thời yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự Toà án nhân dân cấp huyện khắc phục tồn tại, vi phạm được phát hiện, phòng ngừa vi phạm phát sinh gây hậu quả nghiêm trọng phải xử lý hành vi theo quy định pháp luật.

Phòng 8 VKSND tỉnh Khánh Hòa

Liên kết website

Thông kê truy cập