Trang thông tin tổng hợp Viện Kiểm Sát Khánh Hòa

CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 94 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3/2/1930 - 3/2/2024)

CĂN CỨ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THAY THẾ TẠM GIAM THEO QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

Biện pháp ngăn chặn được áp để kịp thời ngăn chặn tội phạm, hoặc có căn cứ cho rằng người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, hoặc để đảm bảo thi hành án, được qui định tại khoản 1 Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS).

Trong bài viết này tôi chỉ đề cấp đến các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam - bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm; đối tượng áp, thời điểm áp dụng  và những quan điểm khác nhau trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm được qui định tại Điều 121, Điều 122 BLTTHS.

1.Đối tượng áp dụng và thời điểm áp dụng.

Điều 121và Điều 122 BLTTHS qui định các biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm là các biện pháp ngăn chặn thay thể tạm giam.

Như vậy có thể thấy rằng, do các biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm là để thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam nên đối tượng được áp dụng là nhưng người đã bị khởi tố về hình sự - là bị can, bị cáo và họ có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp tạm giam.

Vì đối tượng áp dụng là bị can, bị cáo vậy, thời điểm áp dụng các biện pháp này có thể hiểu là áp dụng trước khi bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam hoặc khi bị can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam.

Áp dụng trước khi bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nghĩa là bị can, bị cáo thuộc các trường hợp bị tạm giam được quy định tại Điều 119 BLTTHS, nhưng do họ được người thân hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ công tác bảo lĩnh; tự mình hoặc người thân đặt tiền để bảo đảm và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận cho họ được áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm thay thế cho biện pháp tạm giam mà lý ra họ có thể bị áp dụng.

Áp dụng khi bị can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam là khi bị can, bị cáo đang bị tạm giam, họ được người thân hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ công tác bảo lĩnh; tự mình hoặc người thân đặt tiền để bảo đảm và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận cho họ được áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm thay thế cho biện pháp tạm giam mà họ đang bị áp dụng.

2.Căn cứ áp dụng:

Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm trước hay sau khi bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam đều dựa trên các căn cứ sau:

Thứ nhất: Trên cơ sở quy định tại khoản 1 Điều 121, khoản 1 Điều 122 BLTTHS thì đối vói bị can, bị cáo phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân, tình trạng tài sản (đối với biện pháp đặt tiền để bảo đảm) của họ thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án mới cho họ được bảo lĩnh.

Thứ hai: Có đơn bảo lĩnh của cá nhân, tổ chức đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS; bị can, bị cáo, người thân của họ có tài sản và đơn xin được dùng tài sản của mình để bảo đảm cho việc tại ngoại của bị can, bị cáo.

Thứ ba: Bị can, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.

Căn cứ này không được quy định cụ thể trong BLTTHS nhưng xuất phát từ chính khái niệm, bản chất của các biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm thì đây là một trong những căn cứ để áp dụng.

BLTTHS năm 2015 quy định rõ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chỉ được áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp cụ thể được quy định tại Điều 119 BLTTHS, do đó chỉ khi bị cáo thuộc những trường hợp bị tạm giam thì mới xem xét việc áp dụng các biện pháp bảo lĩnh hay đặt tiền để bảo đảm. Nói một cách cụ thể, nếu bị can, bị cáo thuộc các trường hợp không bị tạm giam thì đương nhiên không cần các biện pháp này để được tại ngoại.

Khi có đầy đủ các căn cứ trên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xem xét, có thể cho bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam bảo lĩnh hay đặt tiền để bảo đảm.

3.Những quan điểm khác nhau trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

Như đã phân tích ở trên, từ căn cứ áp dụng: bị can, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam mới xem xét việc áp dụng biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm đã này sinh nhưng quan điểm khác nhau trong việc hiểu, áp dụng.

Thứ nhất: Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội thuộc các trường hợp không được áp dụng biện pháp tạm giam đó là bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng mà không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 119 BLTTHS; bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng mà không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 119 BLTTHS. Nhưng trong thời gian bị điều tra, truy tố hoặc xét xử, họ có những hành vi vi phạm các quy định tại các điểm a, b, c, d, đ khoản 2; khoản 3; điểm a, b, c khoản 4 Điều 119 BLTTHS thì họ có được áp dụng biện pháp bảo lĩnh hay đặt tiền để bảo đảm không?

Ví dụ: A chưa có tiền án, tiền sự, lý lịch rõ ràng, phạm tội trộm cắp tài sản qui định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS), được Cơ quan điều tra cho áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Trong thời gian tại ngoại để điều tra, A tiếp tục phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản qui định tại khoản 1 Điều 174 BLHS.

Quan điểm 1: A bị tạm giam và không được áp dụng biện pháp bảo lãnh hay đặt tiền để bảo đảm vì: Các biện pháp ngăn chặn này đều dựa trên căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân người phạm tội. Trong trường hợp này A có nhân thân xấu, đã được cho áp dụng biện pháp ngăn chặn nhưng tiếp tục phạm tội.

Quan điểm 2: Bị can, bị cáo vẫn được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lãnh hay đặt tiền để bảo đảm vì: Tại thời điểm A phạm tội trộm cắp tài sản, A thuộc trường hợp không bị tạm giam, chỉ khi A tiếp tục phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì lúc này A mới thuộc các trường hợp có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam. Do vậy biện pháp bảo lãnh hay đặt tiền để bảo đảm với ý nghĩa là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam vẫn có thể cho bị can, bị cáo được áp dụng nếu bên bảo lãnh hoặc tài  sản đảm bảo đúng quy định.  Tôi đồng ý với quan điểm 2, quan điểm 1 là không chính xác.

Thứ hai: bị can, bị cáo phạm tội thuộc các trường hợp có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam đã được Cơ quan tiến hành tố tụng cho áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Trong thời gian bị điều tra, truy tố hoặc xét xử, họ có những hành vi vi phạm một trong các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 BLTTHS thì họ có được áp dụng biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam nữa hay không ?

Ví dụ: A đang bị tạm giam và được được Cơ quan điều tra cho áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam. Trong thời gian tại ngoại để điều tra, A bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.

Quan điểm 1: A bị tạm giam và không được áp dụng biện pháp ngăn chặn nào khác vì A đã vi phạm nghĩa vụ khi được cho bảo lĩnh quy định tại khoản 3 Điều 121 BLTTHS. Do vậy, A phải bị áp dụng biện pháp tạm giam mà không được tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Quan điểm 2: A vẫn được áp dụng biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam, nhưng trong trường hợp này là biện pháp đặt tiền để bảo đảm. BLTTHS quy định biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm thuộc nhóm các biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam và mức độ áp dụng của hai biện pháp này là hoàn toàn khác nhau. Nếu như biện pháp bảo lĩnh dựa trên đối nhân thì biện pháp đặt tiền để bảo đảm dựa trên đối vật. Có thể thấy rằng mức độ áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm sẽ mạnh hơn biện pháp bảo lĩnh, thậm chí ngay việc biện pháp đặt tiền để đảm bảo lần đầu bị vi phạm thì vẫn có thể áp dụng tiếp biện pháp này nhưng với số tiền cao hơn. Do vậy ở ví dụ trên, dù A đã bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh mà còn vi phạm nghĩa vụ thì A vẫn thuộc trường hợp bị tạm giam và do đó việc áp dụng biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam – đặt tiền để bảo đảm mạnh hơn bảo lĩnh là có căn cứ, đúng quy định. Tôi thống nhất với quan điểm 2. Ở trường hợp này Quan điểm 1 vẫn đúng. Tuy nhiên nếu chỉ tuyết đối áp dụng quan điểm này là chưa hiểu hết ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam và sẽ cứng nhắc trong việc áp dụng, chưa bảo vệ được tốt nhất quyền con người, chưa góp phần giảm tải tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam.

Trên là quan điểm cá nhân về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn thay thê tạm giam  - bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm; đối tượng áp, thời điểm áp dụng và những quan điểm khác nhau trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm được qui định tại Điều 121, Điều 122 BLTTHS.

Hoàng Kim Ngọc

Liên kết website

Thông kê truy cập