Ngày 17 tháng 3 năm 2025, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành Chỉ thị số 03/CT-VKSTC, triển khai thi hành Luật tư pháp người chưa thành niên trong ngành kiểm sát nhân dân. Tại mục 3 Chỉ thị nêu rõ: “Kể từ ngày Luật công bố (ngày 02/12/2024), các đơn vị, Viện kiểm sát nhân dân các cấp triển khai áp dụng thực hiện kịp thời các quy định tại khoản 2, 5 và 6 Điều 179 về hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, án treo, hoãn chấp hành hình phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và các quy định khác có lợi trong xử lý, giải quyết các vụ việc, vụ án liên quan đến người chưa thành niên phạm tội”.
Trong các quy định hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, tại Điều 116 quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do vô ý, phạm tội ít nghiêm trọng và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”.
Trường hợp Nguyễn Văn A (17 tuổi 3 tháng) điều khiển xe mô tô, có dung tích 49cm3, chở theo Nguyễn Văn B di chuyển trên Quốc lộ 1A, do không buồn ngủ, thiếu chú ý quan sát, không làm chủ tay lái, đã để xe mô tô tông vào đuôi xe tải đang đỗ lề đường, làm A, B ngã xuống đường, sau đó B chết do chấn thương sọ não. Hành vi của Nguyễn Văn A phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự”, hình phạt bị áp dụng là bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Người phạm tội phạm tội với lỗi vô ý, có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có nhân thân tốt, được người đại diện theo pháp luật của bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
Trong quá trình giải quyết vụ án, có sự khác nhau giữa các cơ quan tố tụng, người tham gia tố tụng đối với việc áp dụng hình phạt của Nguyễn Văn A. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Nguyễn Văn A đủ điều kiện để áp dụng quy định tại Điều 116 Luật tư pháp người chưa thành niên phạm tội để có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo.
Quan điểm thứ hai cho rằng: mặc dù Điều 116 Luật tư pháp người chưa thành niên quy định hình phạt cảnh cáo được áp dụng đối với trường hợp phạm tội do lỗi vô ý, nhưng các hình phạt quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự không có hình phạt cảnh cáo, nên không thể áp dụng hình phạt này đối với Nguyễn Văn A.
Người viết đồng thuận với quan điểm thứ nhất, bởi lẽ: tại Điều 2 của Luật Tư pháp người chưa thành niên đã quy định rõ việc áp dụng Luật tư pháp người chưa thành niên khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, giải quyết vụ án hình sự được áp dụng theo quy định của “..Luật này và theo quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, luật khác không trái với quy định của Luật này”. Như vậy, thứ tự ưu tiên áp dụng khi giải quyết vụ án hình sự khi người phạm tội là người chưa thành niên, bao gồm cả hình phạt là phải áp dụng Luật Tư pháp người chưa thành niên trước, trường hợp Luật Tư pháp người chưa thành niên không có quy định mới áp dụng các quy định tại các luật khác. Trong trường hợp này, Nguyễn Văn A phạm tội với lỗi vô ý và đủ các căn cứ, điều kiện theo quy định tại Điều 116 Luật Tư pháp người chưa thành niên phạm tội thì việc áp dụng hình phạt cảnh cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định.
Thứ hai, việc áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với Nguyễn Văn A trong trường hợp này không trái với các quy định tại Bộ luật Hình sự 2015, bởi tại Điều 98 Bộ luật Hình sự 2015 quy định các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có hình thức “Cảnh cáo”, nhưng lại không quy định cụ thể áp dụng hình thức xử phạt này trong trường hợp nào. Luật Hình sự và Luật Tư pháp người chưa thành niên đều điều chỉnh hành vi phạm tội, nhưng Luật Hình sự áp dụng rộng rãi cho mọi đối tượng, trong khi Luật Tư pháp người chưa thành niên là một ngành luật chuyên biệt, quy định chi tiết về quyền và trách nhiệm pháp lý của người chưa thành niên phạm tội. Do đó, trường hợp Luật Hình sự không có quy định mà Luật Tư pháp người chưa thành niên có quy định thì việc áp dụng quy định tại Luật Tư pháp người chưa thành niên là hoàn toàn có cơ sở.
Thứ ba, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự buộc phải tuân thủ các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và các văn bản khác có liên quan, nhằm đưa ra quyết định hoặc bản án phù hợp với quy định pháp luật, đảm bảo tính nhân đạo của Nhà nước và mang tính thuyết phục cao. Bên cạnh việc thu thập, xem xét, đánh giá chứng cứ, chứng minh tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị xâm hại được pháp luật bảo vệ, còn phải đảm bảo áp dụng triệt để nguyên tắc có lợi cho người bị buộc tội. Nguyên tắc này thể hiện rõ tại quy định ở khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự “Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”. Tại khoản 1 Điều 5 Luật Tư pháp người chưa thành niên cũng quy định rõ “Khi giải quyết vụ việc, vụ án có người chưa thành niên phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ”. Do đó, việc xem xét áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với trường hợp của Nguyễn Văn A là hoàn toàn có cơ sở, không trái quy định pháp luật, đảm bảo đúng nguyên tắc có lợi cho người bị buộc tội.
Để việc áp dụng quy định pháp luật thống nhất, đảm bảo việc giải quyết các vụ án hình sự đối với người chưa thành niên có căn cứ, đúng quy định, cần có hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp này./.