“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa
thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác
có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính
phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và
báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy
định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.”
Quy định này xác định rõ nguyên tắc: phần lãi suất vượt quá không có hiệu lực pháp luật. Song, cách hiểu và áp dụng cụ thể trong từng vụ án lại có sự khác biệt.
Về nội dung vụ án:
Ông Lê Kim P có vay của ông Nguyễn Hoàng Long H số tiền 150.000.000 đồng, thời hạn vay 15/12/2022 đến 15/3/2023, cả hai thỏa thuận lãi suất là 7,5%/tháng tương đương 90%/năm. Việc vay mượn được cả hai lập giấy vay tiền do ông Lê Kim P tự viết (có ký tên và lăn tay). Khi đến hạn trả tiền nhưng ông P không thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo thỏa thuận ban đầu. Ông H đã nhiều lần liên hệ, tới nhà để yêu cầu trả lại số tiền nợ thì ông P hứa hẹn nhiều lần nhưng không trả. Vì vậy, ông H khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông Lê Kim P trả lại cho ông số tiền nợ gốc là 150.000.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 20/3/2024 đến ngày 15/8/2025 theo mức lãi suất 20%/năm tương đương số tiền 42.164.425 đồng. Tổng cộng là 192.164.425 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, ông P đã cung cấp cho Tòa án các chứng cứ, tài liệu thể hiện tính đến ngày 19/3/2024, ông P đã trả nhiều lần cho ông H số tiền lãi tổng cộng là 67.625.000 đồng. Theo mức lãi suất tối đa 20%/năm mà pháp luật cho phép, tiền lãi từ ngày cho vay, ngày 15/12/2022 đến ngày 19/3/2024 được xác định là 37.750.000 đồng. Như vậy, số tiền lãi đã trả vượt quá là 29.875.000 đồng.
Từ vụ án trên, có các quan điểm xử lý lãi suất vượt quá như sau:
Quan điểm thứ nhất: Tòa án xác định tổng số tiền mà bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn là 192.164.425 đồng, trong đó bao gồm 150.000.000 đồng tiền gốc và 42.164.425 đồng tiền lãi. Tuy nhiên, số tiền lãi mà bị đơn đã trả cho nguyên đơn vượt quá mức lãi suất tối đa theo quy định của pháp luật tương ứng với số tiền 29.875.000 đồng, nên phần lãi suất vượt quá này không có hiệu lực. Do đó, số tiền bị đơn còn phải thanh toán cho nguyên đơn được xác định là 162.289.425 đồng (tức 192.164.425 đồng trừ 29.875.000 đồng).
Quan điểm thứ hai: Số tiền lãi đã trả vượt mức quy định (29.875.000 đồng) được trừ vào số tiền nợ gốc tại thời điểm trả lãi. Do đó, tại ngày 19/3/2024, số tiền nợ gốc còn lại là 120.125.000 đồng. Tòa án xác định số tiền bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn là 153.825.000 đồng, trong đó số tiền nợ gốc là 120.125.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 20/3/2024 đến ngày 15/8/2025 theo mức lãi suất 20%/năm là 33.700.000 đồng.
Tác giả thống nhất với quan điểm thứ hai, bởi căn cứ vào Điều 9 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm quy định:
Hợp đồng vay tài sản có thỏa thuận về lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn,
lãi trên nợ lãi quá hạn cao hơn mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên
nợ lãi quá hạn được pháp luật quy định thì mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá
hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn vượt quá không có hiệu lực; số tiền lãi đã trả
vượt quá mức lãi suất, lãi trên nợ gốc quá hạn, lãi trên nợ lãi quá hạn quy
định được trừ vào số tiền nợ gốc tại thời điểm trả lãi; số tiền lãi đã trả vượt
quá còn lại sau khi đã trừ hết nợ gốc thì được trả lại cho bên vay.”
Như vậy, việc xử lý thỏa thuận về lãi, lãi suất cao hơn mức lãi, lãi suất được pháp luật quy định đã được hướng dẫn rõ ràng và chặt chẽ tại Điều 9 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, khi giải quyết các vụ án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, Tòa án cần áp dụng thống nhất theo hướng dẫn này để bảo đảm tính công bằng và phù hợp pháp luật./.